Tôi vì bạn, bạn vì tôi
youtube chanel

Chiến tranh biên giới 1979

Không sợ kẻ thù, chỉ sợ lãng quên

 

Một ngày cuối hè năm 1979, Long về nhà. U anh đang sàng gạo ngoài sân. Long dừng chân cạnh u: “U đang sàng gạo ạ?”. Người mẹ chẳng ngước mắt lên, chỉ nói “Ừ”. Rồi lại cặm cụi làm.

 

Long bước vào nhà. Lúc này u mới nhìn theo: bà tưởng cái bóng áo xanh lúc nãy là một anh bộ đội ở doanh trại gần nhà đi ngang qua hỏi thăm. Sao lại bước vào nhà? “Ô thằng Long đấy à?” - bà thốt lên. Rồi u chạy vào, ôm chặt Long khóc nức nở.

 

U đã đòi lập bàn thờ anh được mấy tháng - nhưng thầy anh cản không cho. Thằng Long chưa chết, thầy anh quả quyết, không biết vì sao. Đã mấy lần thầy lên biên giới, cố tìm xác con, nhưng không thấy.

 

Hôm ấy, cả làng kéo đến nhà Long, bỏ cả buổi xem vô tuyến ở doanh trại bộ đội. Mừng tủi. Đã nửa năm trôi qua, chẳng ai nghĩ Long còn sống.

 

Làng Trường Lâm ở ngoại ô Hà Nội này, 7 đứa đi chiến trường biên giới, thì đã có bốn người vĩnh viễn không trở về.

 

Âu Xuân Long nhập ngũ tháng 5/1978. Sau một đợt huấn luyện ngắn, Long được điều lên Văn Lãng, Lạng Sơn. Chàng trai vừa tròn 18 vẫn hồn nhiên như trẻ con. “Trên cột mốc hồi ấy có cây bưởi sai lắm, vẫn ở tuổi tranh nhau cái gậy để chọc bưởi mà, có biết gì đâu” - anh nhớ rất chi tiết những ngày tháng bình yên ấy. Từ quả đồi nơi đóng quân nhìn xuống là biên giới, bà con trong bản vẫn lại qua bình thường buôn bán.

 

Mọi chuyện chỉ bắt đầu thay đổi từ tháng 8. Buổi sáng 25/8/1978, cách chỗ Long đóng quân chỉ vài cây số, một người bạn đồng niên hy sinh.

Trên đồi Pù Tèo Hào hôm ấy, chiến sĩ Lê Đình Chinh ngã xuống sau một nhát dao của những kẻ thù mặc thường phục tràn từ bên kia biên giới sang. Anh vừa 18 tuổi. Sau này, người ta tìm thấy một lá thư anh Chinh viết ba ngày trước hôm đó.

 

"Em xác định rằng trong cuộc chiến đấu bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc sẽ có mất mát, cái đó khó mà tránh khỏi. Nhưng em đã sẵn sàng".Lê Đình Chinh

 

Liệt sĩ Lê Đình Chinh

 

Người ta gọi Lê Đình Chinh là chiến sĩ đầu tiên hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Ngày 25/8, trong trí nhớ Âu Xuân Long, trở thành dấu mốc của sự căng thẳng leo thang. Phía Trung Quốc bắt đầu tăng tuần suất bắc loa qua biên giới tuyên truyền kích động bằng tiếng Việt. Long không nhớ nội dung chúng nói: “Nói vớ vẩn, nghe làm gì”.

 

Giai đoạn đó, hai bên đều chưa có động thái quân sự chính thức. Nhưng phía Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng việc chống lại một cuộc tấn công: dân quân được huy động để cắm chông dọc biên giới. “Mình cứ cắm nó lại nhổ” - Âu Xuân Thành, một trong 3 người lính của làng Trường Lâm may mắn trở về, nhớ lại.

 

Căng thẳng cứ thế tiếp diễn trong hơn nửa năm tiếp theo, cho đến khi kẻ thù đi bước đầu tiên của mình.

 

5 giờ sáng 17/2/1979, bầu trời biên giới bỗng sáng rực.

 

Âu Đức Thành đóng quân cách biên giới hơn 10km. Đêm ấy, nhìn về phía chân trời, anh thấy những luồng sáng như chớp trước cơn giông lớn. “Trung Quốc đánh mình rồi” - anh nói với đồng đội. Một cơn mưa đạn pháo trút sang từ phía Bắc. Cuộc chiến tranh biên giới 1979 chính thức bắt đầu.

 

Long và Thành là lính của Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 - những người trấn giữ Đồng Đăng, trận địa ác liệt nhất của cuộc chiến tranh biên giới.

 

Nhiều đồng đội của các anh, những người cùng tuổi mười tám đôi mươi, đã nằm lại trong cuộc giành giật từng tấc đất biên cương.

 

“Người chết trên đất thì không sao, nhưng chết dưới ruộng thì ám ảnh lắm” - Thành kể về những ngày đi khâm liệm cho đồng đội. Người chết dưới ruộng, xác sẽ trương lên. Anh không nhớ mình đã chôn bao nhiêu đồng đội. Không có gì để liệm, chỉ có chính võng và tăng (tấm che trên võng) của người chết, cuốn lại, rồi chôn. “Mùi tử khí ám vào người, có những ngày không ăn nổi cơm”.

 

Hai người bạn chăn trâu cùng làng của Long và Thành hy sinh ở Pháo Đài Đồng Đăng ngày 22/2. Pháo đài ấy đã đẩy lùi hàng chục cuộc tấn công cấp sư đoàn của Trung Quốc trong 5 ngày liên tục. Họ cương quyết không nghe những lời kêu gọi đầu hàng cho đến tận phút cuối. Quân Trung Quốc phá cửa, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, hóa chất vào các lỗ thông hơi, giết cả những người dân vùng xung quanh đang lánh nạn tại nơi này.

 

Trẻ em biên giới tháng 2/1979

 

Âu Xuân Long bị địch bắt vào cuối tháng 2. Đời tù binh khởi đầu bằng những trận đòn thù. “Chúng nó bắt được mình thì phải đánh thôi. Anh em bạn bè nó vừa chết mà” - người đàn ông tóc đã bạc gần hết, kể bình thản. Ông bị địch đưa đi mấy ngày mấy đêm, rồi nhốt ở một ngôi trường bỏ hoang, cùng với vài chục bộ đội và hơn hai trăm người dân thường.

 

Cuộc tấn công dã man không chỉ hướng vào quân đội Việt Nam. Hơn 10.000 dân thường đã thiệt mạng trong cuộc chiến. Mục tiêu của Trung Quốc là một cuộc tấn công phá hoại.

 

Hàng nghìn công trình công cộng, từ ủy ban, trường học, bệnh viện và xí nghiệp; hàng vạn ngôi nhà và héc-ta hoa màu bị phá.

 

Long được thả trong đợt trao đổi tù binh ngày 20/6/1979. Anh đi bộ từ cửa khẩu xuống chợ Đồng Đăng, và nhận ra rằng thị xã đã biến mất. “Vắng lạnh lắm. Chúng nó phá từ cái cột điện đến cầu cống”.

 

Một nửa trong số 3,5 triệu đồng bào sống dọc biên giới phía Bắc, đã mất nhà cửa sau cuộc chiến ấy.

"Chỉ còn nhà sàn của đồng bào dân tộc là nó tha. Còn lại bất kỳ một cái gì bằng xi măng là chúng phá". Âu Xuân Long

 

Năm 1975, khi nghe tin miền Nam đã được giải phóng, cậu bé Âu Xuân Thành khi ấy đã vô cùng háo hức. Cậu nghe kể rằng miền Nam rất giàu có, và nghĩ: thống nhất được miền Nam thì sướng rồi. “Thấy người ta bảo vùng Đồng Tháp Mười thẳng cánh cò bay, ruộng lúa chẳng cần cầy cấy gì, cứ gieo hạt xuống là rung đùi chờ có gạo ăn thôi. Nghĩ thế là sắp sướng rồi” - ông nhớ lại - “Hồi ấy vẫn còn nghĩ ấu trĩ như thế”.

 

Sự háo hức qua đi rất nhanh. Năm 1977, căng thẳng Việt-Trung bắt đầu được đẩy lên cao. Năm 1978, chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra. Năm 1979, Âu Đức Thành cầm súng tham gia chiến tranh biên giới phía Bắc. Ra quân, đi học lái xe rồi trở thành quân nhân chuyên nghiệp, hơn 40 năm sau, cậu bé Thành ngày nào - bây giờ đã nghỉ hưu với hàm trung tá - nhận ra một thực tế.

 

"Bây giờ nghĩ lại, đất nước mình chưa có lúc nào bình an".

Âu Đức Thành

 

Sau chiến tranh biên giới 1979, căng thẳng biên giới vẫn tiếp diễn. Năm 1984, Trung Quốc lại mở cuộc tấn công quy mô lớn vào Hà Giang. Lại một lớp thanh niên nữa của ngôi làng nhỏ bé này ra đi, lại có người không trở về.

 

Và ngay cả những người trở về cũng chưa lành vết thương chiến tranh, dù hơn 30 năm đã trôi qua.

 

Thương binh Lương Văn Hường đã mất bàn chân trái ở chiến trường biên giới.

 

Ông Lương Văn Hường (cùng làng Trường Lâm, Long Biên, Hà Nội) không còn bàn chân trái. Ông đã để lại nó ở Vị Xuyên, Hà Giang, và mang về rất nhiều mảnh đạn trong người - đến bây giờ vẫn chưa lấy hết ra. Nhưng trong trí nhớ của ông, ký ức về cuộc chiến bây giờ đã mờ: cái người cựu chiến binh đối mặt, là cơm áo.

Chiếc xe thương binh để ngoài cửa, chờ có ai vô tình biết số điện thoại gọi đến thì đi. “Người ta giả thương binh, nhưng có sức khỏe, chạy như trâu. Mình què quặt, chỉ ngồi chờ người ta gọi, không kiếm ra tiền”.

 

Cuộc nói chuyện với ông Hường, không phải là về ký ức huy hoàng của những ngày bảo vệ biên giới. Ông phàn nàn về chế độ với con cái, thỉnh thoảng bị chính quyền “quên”, về những ngày kỷ niệm qua loa, về chính sách.

 

Ông cũng chẳng hào hứng lắm khi kể về chiến tranh. “Nhà báo có viết thì viết về bọn giả danh thương binh ấy” - ông nhắc đi nhắc lại lời đề nghị. Đấy là nỗi ám ảnh lớn nhất của người đàn ông sắp bước sang tuổi lục tuần.

 

Sự vinh danh đáng kể nhất mà những cựu binh biên giới - như trong mắt ông Hường - nhận được đến hôm nay, lại là việc người ta giả danh họ, khoác những chiếc áo xanh lá mạ, để kiếm ăn.

 

“Có một cuộc kỷ niệm cấp tỉnh, cấp nhà nước nào về chiến tranh biên giới không nhỉ?” - ông Thành hỏi người viết. Ông không nhớ rằng có. “Con cái bây giờ, kể cho chúng nó nghe, như kể chuyện cổ tích. Trên TV đài báo có nhắc đến mấy đâu mà chúng nó biết” - người lính già than thở.

 

Ông không muốn những gì đã diễn ra bị lãng quên. “Phải nhớ chứ. Bây giờ hàn gắn rồi, thì mình không kích động, không hằn thù, nhưng không thể quên được. Phải nhớ là đất nước mình không một ngày bình yên”.

 

Đó là ngày 17/2/2016, thầy Vũ Văn Khánh quyết định rằng mình sẽ tự tổ chức một cuộc tưởng niệm Chiến tranh biên giới.

 

Học sinh trường THPT An Thới (Phú Quốc, Kiên Giang) tưởng niệm chiến tranh biên giới.

 

Khánh là một thầy giáo dạy văn ở trường THPT An Thới, Phú Quốc, Kiên Giang. Anh thú nhận rằng tới tận năm ngoài 30 tuổi, anh mới lần đầu tiên hiểu kỹ về Chiến tranh biên giới 1979. “Ở ngoài đảo, mình không có điều kiện tiếp cận thông tin, vào Internet, sách giáo khoa thời mình thì không nhắc đến mấy” - anh kể. Khi biết đến, Khánh đã phải nhờ rất nhiều bạn bè ở các trường đại học gửi tài liệu cho đọc, để biết thêm về cuộc chiến ấy. Anh quyết định rằng mình sẽ không để các em học sinh phải chịu điều ấy - dù anh là một thầy giáo dạy văn, không phải dạy sử.

 

Tiết học Khánh chọn, là sau khi anh giảng xong cho học sinh về “Bình Ngô đại cáo” - tác phẩm tuyên bố chủ quyền dân tộc trước giặc xâm lăng phương Bắc.

 

Anh dành một tiết học ngồi kể cho học sinh về cuộc chiến, về diễn biến, và những đau thương mà nó mang lại. Rồi người thầy giáo khóc. Gia đình anh cũng có nhiều liệt sĩ. Anh nhớ bà ngoại, mất chồng từ năm 26 tuổi, nhớ người cậu ruột hy sinh ở chiến trường biên giới Tây Nam. Học sinh trong lớp cũng đồng loạt khóc theo. Rồi cả lớp đứng dậy, dành một phút tưởng niệm cho những người đã ngã xuống trong ngày 17/2/1979.

 

Tiết học ấy sau này trở nên nổi tiếng trên báo chí. Bởi vì nó đặc biệt: những cuộc tưởng niệm như thế không được tổ chức ở nhiều nơi trên đất nước, đặc biệt với những người ngoài quân ngũ.

 

Nhưng năm nay, gọi điện lại, thầy giáo Khánh tâm sự rằng có lẽ mình sẽ vẫn chỉ tổ chức kỷ niệm cho những lớp anh đứng - với tư cách cá nhân. Sách giáo khoa lịch sử, vẫn chỉ có 11 dòng về chiến tranh biên giới, và nhiều nơi thậm chí 11 dòng này còn được đưa vào chương trình giảm tải, nghĩa là học sinh tự đọc.

 

Ở trên khắp đất nước, còn có bao nhiêu thanh niên như Khánh, sinh ra ngay sau khi tiếng súng vừa im, đã ngoài 30 nhưng chưa một lần được nghe về “Chiến tranh biên giới”?

 

Thậm chí là chính những lính năm ấy cũng đang quên. Họ đều đã già. Bây giờ mỗi năm, đến ngày 15/5, ngày thanh niên trong làng nhập ngũ năm 1978 ấy, ông Thành lại đứng ra gọi anh em đồng ngũ gặp mặt. “Không phải để nhậu đâu, mà để nhắc nhau nhớ lại”. Những người lính già, sau bao nhiêu năm chiến đấu với cơm áo, có khi cũng chẳng còn nhớ được chính mình đã làm gì.

 

“Phải ngồi lại với nhau, để người này nhắc người kia, ngày ấy mày làm gì, làm gì. Không thì chẳng nhớ được đâu” - ông Thành kể.

 

Những người lính già ấy, nói về chiến tranh với một vẻ đầy bình thản. Nhưng họ chua chát khi nói về sự lãng quên. Chính bản thân họ, sau bao nhiêu năm, cũng không cưỡng lại được sự phai mờ của ký ức. Họ sợ sự quên ấy, chứ không sợ kẻ thù.

 

Đức Hoàng / Ảnh: Trần Mạnh Thường - VnExpress

Bình luận